Vào Nam

 Sao Khuê

 Tôi ra đời ở một  làng nhỏ, làng Trình Phố thuộc tỉnh Thái Bình. Tôi sinh ra và lớn lên theo chiến tranh giữa Việt Minh và quân Pháp. Dù còn nhỏ nhưng tôi sợ cả hai. Mỗi lần quân Pháp về làng là chúng đốt nhà, bắt gia súc và hãm hiếp đàn bà. Căn nhà nhỏ xíu của ba mẹ tôi ở làng Đồng Xâm bị chúng đốt cháy chỉ vì thích đốt, đốt vô tội vạ như trẻ con đốt một con thuyền gấp bằng giấy. Các cô tôi phải trốn dưới ao, trong chiếc chum lớn ủ mạ lúa, trong đống rơm ngoài chuồng bò khi quân Lê Dương, thường là Maroc, Algérie đi hành quân. Còn Việt Minh? Với bộ quần áo nâu, mã tấu sáng loáng, hàm răng vổ, họ về làng  ban đêm, bắt người đem đi chặt đầu rồi ghim trên ngực một bản án. Ba tôi may mắn thoát chết chỉ vì tình cờ về thăm ông bà nội tôi vào đêm mà Việt Minh tìm bắt ông Lý trưởng và ba tôi để giết.

Tối đó, tôi đứng khép nép bên mẹ tôi nghe người ta quát tháo:

-         Anh ấy đâu, bảo ra trình diện!

-         Dạ thưa ba các cháu không có nhà.

-         Chị đừng có nói láo - Tụi kia, lục soát!

-         Anh ấy trốn đâu?

-         Dạ thưa sáng nay, ba…

-         Ba cái gì mà ba, bố thì gọi là bố, bầy đặt ba với me, đồ vong bản. Anh ấy đi đâu?

-         Dạ, ba… dạ bố các cháu về thăm ông bà nội cháu.

-         Bao giờ về?

-         Dạ tôi không rõ, ông nội cháu ốm nên không biết bao giờ bố cháu mới về.

-         Khi nào về bảo ra trụ sở trình diện!

-         Thưa vâng.

   Sau đó họ kéo nhau qua nhà ông Lý trưởng  ở kế bên và sáng hôm sau người ta thấy xác ông Lý bị chém, thả trôi trên sông Trà Lý.

   Họ còn giết nhiều người, có khi chỉ vì ghen ghét cá nhân từ hồi nảo hồi nào bằng cách vu cho người ta là Việt gian rồi chặt đầu, rồi thả xuống sông. Những con tôm rỉa xác người nên sinh nhiều lớn mạnh, con nào cũng to nhưng không ai dám ăn nữa cả.

   Mẹ tôi nhắn tin về Trình Phố và từ đó ba tôi đi thẳng ra tỉnh, mẹ tôi cũng bỏ nhà, bỏ ruộng dẫn em gái tôi ra theo.  Các cô tôi cũng từ từ trốn ra tỉnh dẫn theo ông tôi. Tôi ở lại làng với bà nội.

  Dần dần Việt Minh kiểm soát được nhiều làng, nhiều xã. Dân chúng cũng từ từ rời làng ra tỉnh. Đại gia đình chúng tôi may mắn ra khỏi lũy tre xanh của làng Trình Phố để ra tỉnh Thái Bình. Tôi và bà nội đi đợt cuối cùng nên khi ra đến nơi,  lúc đó tôi được chín tuổi,  thì  mọi việc đã đâu vào đó. Người lớn có công ăn việc làm, trẻ con đã vào lớp học.  

   Ông nội tôi ở với cô Tư và hai cô Út, cô Lộc và cô Phúc. Bà nội tôi ở với bác Cả  và tám anh chị trong căn phố  đối diện, bên kia  đường Lý Thường Kiệt. Bác tôi mua hay thuê một khoảng đất rộng  trong hẻm cạnh nhà cô Tư, cất được ba ngôi nhà nhỏ cho cô Năm, bác Vựng em bác gái, nhà tôi và bác tôi dựng nên một ngôi trường có bốn gian gọi là trường  trung học Trần Lãm cho bốn lớp học là đệ thất, đệ lục, đệ ngũ và đệ tứ.

  Bác Cả và ba tôi dạy học ở trường Trần Lãm. Trường cũ ở làng Trình Phố cũng do bác tôi dựng lên mang tên  trung học Bùi Viện đã đóng cửa. Bác tôi chọn hai tên Bùi  Viện và Trần Lãm vì Trình Phố là quê hương của cụ Bùi Viện, cụ làm quan và đã đi sứ sang Mỹ, còn sứ quân Trần Lãm tức Trần Minh Công chiếm Bố Hải Khẩu tức Tiền Hải, thuộc tỉnh Thái Bình, là chủ tướng của Đinh Bộ Lĩnh, người đã thống nhất 12 sứ quân rồi lên làm vua, xưng là Đinh Tiên Hoàng mà nhà tôi  thì họ Đinh.

   Tiền dạy học không nhiều nên ông bà ngoại tôi gửi tiền bạc hoa xoè giữ được từ xưa ra tiếp tế thêm. Chị lớn của mẹ tôi thường đội một thúng gạo trong có giấu tiền đúc từ Pháp bằng bạc ra cho mẹ tôi bán. Sau 1954 bác tôi bị đấu tố, bị treo ngược đầu xuống đất để chúng khảo của vì ông ngoại tôi  có tiếng giầu có trước kia.

   Năm 1954

Hơn một năm trôi qua. Tôi đã học xong lớp nhì và đang nghỉ hè.

Rạng ngày 19 tháng 7 năm 1954, chúng tôi đang say ngủ thì có tiếng súng, tiếng bom đạn ầm ầm. Mẹ tôi giao cho tôi một tay nải có bộ quần áo  và cô em nhỏ hơn tôi bốn tuổi. Hai chị em lúp xúp chạy theo bố mẹ và cậu em hơn một tuổi ra bến xe. Nhà bác Cả đã ở đó cùng với bà nội. Ông nội đã theo các cô ra Hà Nội trước đó. Nhà cô Năm cũng đi trước cả tháng vì chú Năm đi theo sở làm. Mọi người trong tỉnh ùn ùn ra bến xe, tìm cách chạy sang Nam Định. Khi chúng tôi tới nơi, chỉ còn lại ba chiếc xe đò. Chúng tôi leo lên chiếc xe có tài xế ngồi nơi tay lái và có cả gia đình ông ấy,  chắc mẩm là chạy thoát nhưng than ôi, một ông lính dơ trái lựu đạn ra ép tài xế phải sang lái chiếc xe có gia đình ông ta. Bác Cả và ba tôi chỉ kịp chạy theo chiếc xe đó, bỏ lại vợ con, bám vào tay vịn, đứng một chân trên càng xe mà tới được Nam Định, sau đó ra Hải Phòng, nơi chú Bẩy tôi sinh sống từ năm ngoái, 1953, khi chú thím rời chiến khu vào thành. Trước khi ra Hải Phòng chú thím có ghé chào ông bà nội, chú tôi rất đẹp trai như Tây lai. Cao lớn, trắng trẻo, mày rậm, mắt to, mũi cao, chú đẹp nhất nhà. Các cô chú tôi ai cũng cao lớn lại có vẻ như lai Tây, trừ chú Út .

  Trở lại với hai gia đình lúc nào cũng chậm lụt là mẹ tôi với ba con, bác gái với tám anh chị và bà nội, chúng tôi rời xe và chia tay, tìm đường về bên ngoại. Mẹ tôi dẫn chúng tôi về Phụng Thượng. Xe đò chạy ngang một trại lính, chắc vừa  giao tranh nên có nhiều người vừa chết, còn đang mặc quần áo tử tế, có lẽ sửa soạn chạy trốn thì bị giết. Có một bé trai chừng 6 ,7 tuổi trông khôi ngô, nằm chết tình cờ, nằm chết như mơ in vào đầu tôi đến bây giờ.  Xe chạy đến bờ sông thì ngừng lại, không có cầu qua sông. Mẹ tôi phải thuê người ta cõng từng đứa lội qua. Ông ngoại tôi vừa mất ngày đưa ông Táo về trời, bà ngoại đã được các cậu dẫn ra Hà Nội và sau đó đưa vào Nam nên không bị đấu tố.

   Chúng tôi ở nhà bác được vài ngày thì chính phủ Việt Minh ra lệnh

ai về nhà nấy vì nước nhà đã được độc lập. Hiệp định Genève ký ngày  20 tháng 7 năm 1954  tại  Genève Thuỵ Sĩ,  một ngày sau khi Việt Cộng đánh và chiếm được tỉnh Thái Bình, đã chia Việt Nam ra làm hai phần bằng vĩ tuyến thứ 17, phía Bắc theo chế độ Cộng Sản do Việt Minh kiểm soát và miền Nam, do quốc trưởng Bảo Đại trách nhiệm.

  Chúng tôi trở về nhà, may mắn còn nguyên. Bố tôi có nuôi hai chị là chị Nụ và em là chị Bằng. Chị Nụ đã được cho về nhà lấy chồng, chị Bằng trong lúc lộn xộn chạy về quê chị nhưng sau đó trở lại xin ở tiếp.

  Từ đó chị  Bằng trông coi ba đứa chúng tôi mới 10, 6,và 2 tuổi khi  mẹ tôi cùng bác Cả đi buôn. Bác Cả gái và mẹ tôi xin được giấy phép đi lại Thái Bình-Hà Nội để mua vải, thuốc Tây về bán. Bà nội tôi dựng cái sạp bán nón lá ngoài chợ. Hàng mua về thường bán lại ngay cho người bán lẻ nên mẹ tôi ít khi có nhà.

  Lũ trẻ chúng tôi được lệnh phải tham gia đội thiếu nhi bác Hồ, tối tối phải tập trung nghe giảng, nắm tay nhau ca hát, nhẩy sol đố mì. Những bài ca thường chỉ là nốt nhạc, không lời mà đến giờ, 65 năm tôi vẫn còn nhớ:

             Rề rề sỉ rề son rê sí, sí sí xòn

             Sí sí  sòn sòn đố mí la, rê sí xòn sí đồ… đồ mi pha son.

Lần đầu phải nắm tay con trai, con bác tuỳ phái của trường Trần Lãm, tôi rất là ngượng ngùng xấu hổ. Các anh chị em tôi chơi với nhau nhưng trai gái cũng không nắm tay nhau.

  Cái trò trai gái gần nhau, nắm tay múa hát rất được thanh thiếu niên ủng hộ. Hồi nào đến giờ bị cha mẹ cấm đoán nay được bắt buộc chung chạ nên các anh chị sốt sắng đi hội họp. Dân chúng còn truyền nhau có thanh niên nọ mê nhảy mì sol, nên lúc leo trên bờ tường cũng nhảy rồi ngã xuống đất bể đầu và bà mẹ khóc con:

       Người ta thì chết vì nước vì non

       Con tôi thì chết vì sol đố mì


Trước khi rút đi, quân Pháp đã thả bom, làm sập cầu Bo, chiếc cầu dẫn vào tỉnh, mục đích cản trở sự tiến quân của quân Việt Minh nhưng công binh của Việt Minh đã nhanh chóng dùng dây kẽm gai chăng từ đầu nọ sang đầu kia của cầu, rồi đặt những tấm ván lên cho người đi bộ qua lại. Cầu Bo biến thành chiếc võng lớn đung đưa theo cơn gió. Để đi lại trên đó nhiều người hoặc phải chạy nhanh hoặc bò. Nghe người lớn kháo nhau, tôi cũng tò mò leo lên cầu; kết quả là ngã lăn cù, lổm ngổm bò dậy, bò thêm một đoạn thì bò về, vì bò vẫn ngã mà còn chóng mặt quay cuồng…

  Trường không mở, không có thầy, chẳng có trò nhưng toàn là bộ đội. Chính quyền lấy trường học Trần Lãm cho bộ đội trú quân. Họ nói tiếng gì trọ trẹ rất khó nghe, muốn hiểu tôi  phải đoán hay hỏi lại, sau này tôi biết họ người Quảng, được chở thẳng từ chiến trường về đây. Họ không được về thăm nhà nên rất buồn và không biết gì mấy về hiệp định Genève cả. Họ mơ tưởng hòa bình thì được về quê sinh sống với cha mẹ vợ con. Họ thường hỏi tôi mượn cây chủi tức cái chổi quét nhà...

   Các anh chị học trò không được đi học và cũng bị tụ tập như lũ trẻ chúng tôi.

 Có một lần các anh chị kéo đến nhà tôi với cái xe ba bánh, chất nhiều sách:

   -  Thầy cô có nhà không ?

   -  Dạ không ạ, mẹ em đi buôn rồi,  chỉ có ba đứa em ở nhà thôi chị ạ.

Các anh chị biết rõ nhà tôi vì nhà tôi sát trường, nên bỏ đi.

Tôi lật  chiếu giường lấy ra quyển truyện thiếu nhi mượn được của bạn để đọc tiếp. Chị Diệm quay phứt lại, giằng lấy quyển truyện:

   - Không được đọc sách Nguỵ. Tất cả đều là  sách vở đồi truỵ phải đem nộp và đem đốt.

Tôi ngớ người, tiếc và lo không viết làm sao trả sách cho bạn tôi.

   - Chị ơi, quyển  này em mượn của bạn em, chị cho em xin lại để trả bạn em.

   - Không được, tất cả đều phải đốt hết. Em cứ nói với bạn em như thế.

   Tôi ghét chị thậm tệ, chị ra sau cùng mà còn ngoái lại, giựt quyển sách khỏi tay tôi. Đúng là cướp giựt...

  Chúng tôi đang ăn cơm, mẹ tôi chia cho hai chị em tôi một quả trứng luộc. Chú bộ đội ngoài hiên, mẹ tôi vội vàng ấn hai nửa trứng xuống dưới bát cơm.

   - Nhà đang ăn cơm hả, ăn gì vậy?

Tôi nhanh trí dơ chén cơm không ra:

   - Dạ, với muối ạ.

   - Ăn gạo trắng cơ à, nhà ta còn tiền mua gạo trắng hả, bóc lột ghê nhỉ.   

 - Dạ, không phải, hôm nay giỗ ông ngoại các cháu nên nhà mới cúng cơm trắng, mọi ngày ăn gạo hẩm với khoai…

    Họ rình mò thế đấy, đến và đi bất chợt  nên mình phải luôn luôn đề phòng. Tôi khôn hẳn ra nhưng là khôn vặt để đối phó  với những rình mò chung quanh.

   Theo tinh thần hiệp định Genève thì dân chúng, cán bộ, sinh viên… tức tất cả mọi người trong nước, dù miền Nam hay miền Bắc  có 300 ngày để chọn lựa đi đâu, ở đâu, Nam hay Bắc của vĩ tuyến 17 tức hai bên dòng sông Bến Hải. Uỷ hội quốc tế kiểm soát đình chiến có đại biểu của ba nước Ấn Độ, Ba Lan, Canada sẽ nhận đơn, giải quyết, giúp đỡ cho việc dời chỗ ở. Dân từ Bắc vào Nam gọi là đi di cư, và ngược lại từ Nam ra Bắc là đi tập kết, với cái hẹn hai năm sau sẽ có tổng tuyển cử, lấy ý toàn dân để đi đến thống nhất nước bất kể ý kiến của Việt Nam Cộng Hòa. Uỷ hội quốc tế đến Thái Bình. Có nhiều con đường bị rào dây kẽm gai, không cho dân vào, đó chính là nơi có bàn giấy thu đơn của Ủy Hội quốc tế kiểm soát đình chiến.  Họ rào và cấm dân tiếp xúc với  Ủy Hội và chỉ dân đến địa điểm không có Ủy Hội nhưng ít người dám đến vì sợ bị điểm mặt ghi tên. Những người muốn di cư vào Nam phải tìm cách trốn ra Hà Nội hay Hải Phòng, từ đó sẽ có phương tiện như máy bay, tầu thuỷ do nhiều nước tự do trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp giúp đỡ để vào Nam, hoàn thành một cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, hơn một triệu người đã bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ mồ mả tổ tiên, bỏ của cải ruộng vườn, bỏ cả cha mẹ anh chị em hay cả chồng vợ, con cái để về miền Nam tự do. Đó là một cái tát đau điếng cho chính quyền Việt Minh dù trước đó Việt Minh đã cho người đến nhiều nhà có máu mặt, nhiều gia sản ở Hà Nội hay Hải Phòng để khuyên can, hứa hẹn ưu đãi. Nhiều nhà mắc lừa đã ở lại vì tiếc của, nhưng đa số đã bán tống bán tháo để chạy, phải chạy Cộng Sản thôi.  

   Tôi có được đọc  một hồi ký của chị N, chị là bạn thân của  AK, bạn của tôi. Theo tôi, hồi ký vượt tuyến này rất có giá trị, tiếc là không được in ra phổ biến rộng rãi. Chị N kể rằng, gia đình chị sinh sống tại Hà Nội. Khi còn là học sinh chị đã từng tham gia biểu tình, hội kín của Việt Minh để chống Pháp. Gia đình chị giàu có, có máu mặt nên khi hiệp định Genève ký xong, Việt Minh cho người tiếp xúc với gia đình chị, kêu gọi ở lại  xây dựng đất nước. Bỏ ngoài tai lời khuyến cáo, gia đình chị vô Nam; riêng chị, chị cương quyết ở lại với căn nhà lớn và chiếc xe hơi. Chỉ sau thời gian ngắn, chị N nhìn ra bộ mặt thật, độc tài đảng trị, lừa dối, gian xảo của Vẹm nên chị âm thầm tìm cách vượt tuyến. Bán nhà, bán xe làm vốn chị nhờ người dẫn sang Lào, xuống Miên để tới hòn ngọc Viễn đông. Trải qua bao gian khổ hiểm nguy, có khi tưởng chết, có lúc như bị bắt lại, cuối cùng chị N cũng thoát cái ách độc tài vừa quàng lên cổ.

   Chú Vy, chồng của cô tôi cũng sống tại Hà Nội, cũng ở lại và sau cùng cũng trốn đi, đi bộ có, đi xe có, cũng con đường qua Lào, qua Miên để đến Sài Gòn. Chú Vy mê sách nên có một nhà sách. Chú giấu được và bán tất cả, mua từng sợi dây chuyền  vàng, đeo vào cánh tay, thuê người dẫn đường, ăn bờ ngủ bụi để vào tới Sài gòn tìm gặp lại cô tôi, người con gái mỹ miều chú chỉ mới gặp một lần khi chạy tản cư. Cảm động mối tình si chung thuỷ nên cô tôi nhận lời lấy chú…

   Chúng tôi cũng thế, chúng tôi  phải lần lượt trốn đi vài tháng sau hiệp định thay vì theo đúng tinh thần hiệp định chúng tôi có quyền đi công khai tới Hải Phòng mà vào Nam. Nếu được đi công khai theo đúng tinh thần hiệp định, tôi nghĩ không phải 1 triệu mà có lẽ nửa số dân miền Bắc và nhất là những người đã từng sống thôn quê hay tỉnh thành, những vùng đã bị Việt Minh chiếm đóng, sẽ vào Nam.

  Cuối năm trời se lạnh. Một sáng tinh mơ, mẹ đánh thức tôi dậy, đưa bộ quần áo và dẫn tôi đến nhà bà Tham. Tôi theo bà Tham và chú Đức  đi bộ, rồi đi xe đò, rồi đi bộ, rồi đi thuyền qua sông rồi đi bộ... Bà Tham dẫn tôi trốn ra Hải Phòng. Chúng tôi phải đi vòng vo từ làng nọ sang làng kia để không tiết lộ mục tiêu cuối cùng: Hải Phòng, nên giữa trưa nắng chang chang, cổ khô, chân rũ rượi, chúng tôi vẫn phải nỗ lực đi tới, đi tới trong đói khát nhất là mỏi chân. Chúng tôi đến cảng Hải Phòng lúc đã tối mịt, nhiều nhà đã tắt đèn đi ngủ. Hỏi thăm mãi chú Đức cũng tìm ra đường Cát Dài và ngõ Hải Hồng, có điều không biết là nhà nào mà vào nên vừa đi chú Đức vừa gọi to tên chú  Bẩy.

   - Anh Bẩy ơi,  anh Bẩy ơi…

   Trong nhà chú Bẩy nghe tiếng gọi chạy vội ra. Bà Tham và chú Đức giao tôi cho chú  Bẩy rồi vội bỏ đi tìm nhà  bà con vì màn đêm đang buông xuống.

   Một tháng sau, mẹ tôi nối gót ra Phòng với em trai. Họ không biết là tôi đã trốn đi và em gái tôi cùng bà nội còn ở lại nhà nên ủy ban ký giấy cho mẹ tôi đưa em trai đi thăm bố. Nhà cô Năm đối diện với nhà tôi được mẹ tôi nhường cho chị họ là bác Thái ở và bác Thái đã trông nhà khi mẹ tôi dẫn em gái đi.

   Gia đình bác Cả tôi bằng cách nào không rõ cũng đã ra được cả Hải Phòng. Ở lại Thái Bình chỉ còn hai bà cháu ngày nào cũng ra chợ bán nón. Hà Nội lúc đó còn cho đi lại tự do dù đã giao cho chính quyền Việt Minh. Hà Nội đang rầm rộ tổ chức Liên hoan ăn mừng độc lập. Cô Út xin phép về Thái Bình rồi xin phép đưa bà và em tôi ra Hà Nội để xem liên hoan. Giao em tôi cho bố mẹ xong thì các cô và ông bà lên máy bay vào Nam.

   Ở Hải Phòng, ba tôi thuê căn phòng nhỏ, gần nhà chú tôi. Nhà ở giữa,  bên trái không xa hồ nước và  bên phải gần đường rầy xe lửa Hà Nội-Hải Phòng. Hồ nước rất rộng và mẹ tôi thường sai tôi ra hồ giặt chiếu. Giặt chiếu trên hồ rất dễ, tôi ngồi kẹp hai chân trên ván cầu cho khỏi lăn tòm xuống nước, nằm rạp người sát mặt ván cầu, trải cả cái chiếu xuống nước, dùng bàn chải chà từng khúc, gấp lại, cứ thế mà tiếp tục đến khi hết cái chiếu, nhúng xuống nước rồi vác về phơi. Quần áo ướt nhẹp thì về nhà thay.

  Chiều mát tôi  thường theo anh họ ra đường rầy xe lửa xem các cô thôn nữ khăn mỏ quạ, áo nâu nhẩy tầu. Họ không phải là thôn nữ  mà là những giao liên Việt Minh. Họ  mang chỉ thị đến cho những người hoạt động nội thành như chú Bẩy. Trước khi vào ga chót, để tránh khám xét, họ quăng cái thúng chứa tài liệu xuống trước rồi nhẩy vèo xuống sau. Khi chân chạm đất, họ chạy theo hướng tầu một khúc để lấy lại thăng bằng, sau đó vội vàng biến mất với cái thúng tài liệu… và tối đó chú tôi tiếp chuyện với những người khách khác thường này để nhận công tác nội thành. Gia đình chú ở lại. Gia đình bác Cả và gia đình tôi ghi danh vào Nam. Sau lần chia tay, hai mươi năm sau tôi mới gặp lại ông chú cao lớn đã từng đẹp trai như Tây lai mà bây giờ  hom hem, xanh xao, quần áo cũn cỡn.  Tôi không thể giữ lại trong đầu ý nghĩ chán chường này nên  buột miệng nói ra:

 - Chú ạ, đáng lẽ cháu không nên gặp chú thì cháu còn giữ mãi được hình ảnh ông chú cao lớn như Tây ngày xưa...

   Không biết chú  Bẩy có động viên bác hay cha tôi ở lại miền Bắc hay không, nhưng  mẹ tôi kể đã nhìn thấy chú Sáu trong đoàn quân về tiếp thu Thái Bình.  Chú Sáu đã rời hàng quân gặp mẹ tôi và nói nhỏ “Chị bảo mọi người thu xếp vào Nam hết đi kẻo bị đấu tố”. Tôi thương chú vô cùng và chưa biết mặt chú, chú tử trận trên đường Trường Sơn…

 Vào Nam, chỉ những người đã trốn ra tỉnh được mới tìm cách trốn tiếp ra Hà Nội hay Hải Phòng mà vào Nam. Các em của ông tôi,  tiếc của, nấn ná ở lại quê, đều bị đấu tố dã man. Dì ruột tôi, nhà chồng giầu có, vườn ruộng mênh mông nên cả nhà sau khi bị đấu tố, tịch thu nhà cửa ruộng vườn rồi bị đuổi đi vùng kinh tế mới ở Thanh Hoá. Con trai dì, bị bắt đi bộ đội vào Nam, chả hiểu bằng cách nào mà vài tháng sau ngày 30 tháng tư khi cũng tìm đến thăm bố mẹ tôi.

   - Chúng cháu trồng ngô, hái măng, hái nấm mà sống. Trên giường lăn xuống đất chỉ thấy ngô, bao nhiêu năm không biết hột cơm là gì, chỉ ngô, sắn, măng với rau rừng…

  Tuy vất vả nhưng các em gái đều đẹp, trắng nõn nà và biết đọc biết viết cả…

 1955.  Vào Nam

Một tuần trước Tết, hai gia đình Rùa tức nhà bác Cả và nhà tôi là những người sau cùng kẹt lại trong họ, ra bến tàu từ tờ mờ sáng. Chú Bẩy tiễn chúng tôi.

Anh Cả ơi, em tiễn chân anh ra tận bến tàu

 Mọi người nôn nóng, ngóng ra biển.

 

  Ba con tầu sắt lần lượt tiến vào. Gần bờ, con tầu mở rồi hạ nắp xuống cho người ta đi qua mà vào khoang tàu. Khi tàu đầy người, tấm sắt to lớn từ từ được kéo lên, nhốt đám người trong khoang, tách bến ra khơi. Chiếc tàu thứ hai tiến vào, mở ra, giống như cái mồm của con cá sắt nên người ta gọi nó là tàu há mồm. Chúng tôi vào được chiếc tầu thứ hai. Tôi vừa bế em trai hai tuổi vừa ôm bịch áo quần. Mẹ tôi giao thêm em gái rồi cùng ba tôi chuyển thêm đồ đạc vào. Tầu hú còi và từ từ kéo tấm sắt  đóng tầu lại.

   - Mẹ đâu ?

  Không thấy mẹ tôi đâu dù ba tôi và tôi gào lên rồi lấn cả các người trên tàu mà tìm.

Thôi rồi! mẹ tôi kẹt lại rồi.

Ba tôi bồn chồn lo lắng, em gái, em trai khóc hu hu.

…Tàu há mồm lừ đừ ra khơi, tuy chậm như rùa nhưng… kia rồi, tầu lớn kia rồi. Ôi, con tầu mới to làm sao. To như một dãy phố cao tầng. Ngoài thân tầu chìm sâu trong nước, từ boong tầu lên còn ba bốn tầng lầu.

   Có người gọi tên tôi từ tầng cao chót vót. Tôi nhìn lên. Mẹ tôi đang đứng đó hoa tay và kêu ầm ĩ tên tôi, chả là tên tôi rất dễ gọi. Ba tôi vừa mừng vừa giận, mừng thấy lại vợ, giận vì mẹ tôi đi tay không trong khi chúng tôi lễ mễ, lỉnh kỉnh đồ đạc với hai em nhỏ và mẹ tôi còn làm mọi người lo sợ. Mẹ tôi lên chuyến tàu chót, ít người nên tới trước.

   Từ tầu lớn người ta thả xuống cái thang nối liền với tầu há mồm. Tôi bế em trai và mang theo bịch quần áo trên thân hình ốm o của đứa trẻ 10 tuổi. Người lính Mỹ trắng bóc, to, cao đỡ bịch áo quần và bế em tôi.

   Tôi leo lên chiếc thang đung đưa. Tôi nhìn xuống, phía dưới là biển cả xanh thẳm, hẹp bằng khoảng cách của hai con tầu. Chiếc thang đung đưa, nhưng có ngã xuống biển cũng chẳng sao, chỗ này hẹp chắc không sâu, cái ý nghĩ trẻ con ấy bây giờ khiến tôi buồn cười. Tôi cũng leo lên tới sàn tầu lớn. Mẹ tôi đã xuống, bế em trai và đón em gái. Những đồ đạc cồng kềnh được đưa lên sau, nhà nào nhà nấy nhận. Đây là tầu của Hải quân Hoa Kỳ giúp chở người di cư và Nam.

   Chúng tôi dắt díu nhau xuống hầm tầu. Hầm cũng có nhiều tầng, có lẽ ba tầng, chúng tôi ở tầng giữa, mỗi người nhận một chiếc giường sắt trên dẫy giường ba tầng. Tôi leo lên trên. Mệt nhoài sau một ngày phơi mình ngoài nắng trong tầu há mồm nên tôi lăn ra ngủ lúc nào không biết...

  Bác tôi và ba tôi đã lãnh được cơm chiều. Họ phát cho mỗi gia đình một cái thùng sô lớn  để lấy thức ăn và lấy cơm. Ngày đầu không có cơm mà chỉ có một sô đầy thịt gà hầm thơm phức, mềm nhưng lờ lợ, không mặn mà như mọi lần. Chúng tôi ăn no nê. Tôi rủ chị họ, chị Minh, kém tôi một tuổi lên boong tầu xem mặt trời lặn. Sách tôi đọc thường tả cảnh mặt trời lặn đẹp vô cùng. Ông mặt trời to lớn đỏ ối, từ từ rơi xuống biển, tuyệt đẹp.Tầu đang đi qua vịnh Hạ Long, những đồi nuí chập chùng trên nước. Ơ kìa, một bãi cát vàng tươi, cứ như là những hạt vàng lấp lánh trong nắng chiều. Đẹp quá, quá đẹp. Tôi tự nhủ lòng, khi nào lớn lên sẽ trở lại đây thăm, nhìn cho rõ phong cảnh tuyệt đẹp này, nhưng đến nay, gần dất xa trời, tôi chưa hề, và sẽ không bao giờ thấy lại ở kiếp này: chẳng bao giờ tôi  thăm lại quê hương nếu còn Cộng Sản…

Anh biết em đi chẳng trở về. Dặm ngàn liễu khuất với sương che. Tất cả không làm em chùn bước. Cờ đỏ còn kia, em chẳng về...

  Những ngày sau đó, say sóng, chúng tôi ngủ li bì, không biết lúc nào là ngày, lúc nào là đêm, quên cả xem mặt trời mọc hay lặn.

   Thay vì vào cảng Saigon như những chuyến tầu khác, con tầu đậu ngoài khơi Cap St -Jacque tức Vũng Tầu đúng ngày mồng một Tết. Chúng tôi phải chờ tầu nhỏ ra chở vào. Sau nhiều ngày li bì, chúng tôi tỉnh dậy, đói và khát. Than ôi, ngày hôm đó trên tầu không phát thức ăn vì họ ngỡ sẽ đưa chúng tôi vào được đầt liền. Họ chỉ phát cam và bánh kẹo. Những trái cam vàng tươi mới hấp dẫn làm sao. Tôi kéo bà chị tôi đi xếp hàng lãnh cam. Một vị linh mục đi đến, kéo chúng tôi ra khỏi hàng:

   - Mấy đứa này lãnh rồi, bây giờ lại xếp hàng nữa, gian lận, đi chỗ khác.

 Tức tưởi, thấp cổ bé họng, oan ức, chúng tôi rời hàng. Mười lăm người mà không ai lãnh được trái cam quả táo nào. Mẹ tôi bấm bụng mua một quả cam, chúng tôi chia nhau ăn cả vỏ, chả bù ngày đầu lên tầu, gà cả con ăn thừa mứa. Đói quá, mẹ tôi lục hành trang, lôi ra cái bếp cồn (bếp đun bằng dầu hôi) và ít gạo nhúm lửa nấu cơm. Cơm chưa kịp chín thì ông Mỹ cao lớn đến la hét om sòm, bắt tắt ngay lập tức, hoá ra họ sợ lửa lan gây hoả hoạn làm cháy tầu. Thế là mọi người chịu đói đến lúc họ gọi tên và cho gia đình chúng tôi xuống tầu nhỏ vào bãi.

 Trên bãi cát kế khu rừng thưa có nhiều mái tăng được dựng lên làm chỗ tạm trú cho dân di cư. Những người đến trước mang xôi và trứng vịt luộc ra bán. Tôi được hẳn một cái trứng vịt luộc. Đây là cái trứng luộc ngon nhất trên đời. Mẹ tôi nấu cơm nên chúng tôi không phải ôm bụng đói đi ngủ. Tính thích phiêu lưu nên tôi rủ anh họ vào rừng, nhưng chỉ đến ven rừng thì anh cản, sợ trong rừng có rắn và hổ. Vài ngày sau bác tôi điều đình được theo một xe vận tải cùng vài gia đình khác về Saigon.

 Về đến Saigon thì trời đã tối. Xe qua đường Công Lý, quẹo vào phía sau của chợ Phú Nhuận. Bác và  ba tôi lại đi vào từng hẻm mà gọi to tên chú tôi.

   - Trung ơi, chú Trung ơi.

   Cuối cùng thì chú tôi nghe được, ra đưa 15 người vào căn nhà nhỏ đã có sẵn hai cô chú và năm em, tổng cộng hai mươi hai người trong khỏang không gian ba mươi mét vuông.

Sáng hôm sau cô tôi cho hai đứa, tôi và con gái cô, bằng tuổi tôi, một đồng để ăn quà. Thuý dẫn tôi ra chợ, em xé một đồng ra làm hai.

   - Chết chửa, sao em lại xé tiền, lấy gì mà mua bây giờ.


    - Em chia cho chị năm cắc, chị muốn mua gì thì mua.

   - Năm cắc là gì?

Em dúi vào tay tôi nửa đồng tiền giấy vừa xé:

   - Đây này.

   - À một nửa này là năm cắc tức năm hào hả?

   - Ừ, chị thích ăn gì thì mua, nhưng chỉ có năm cắc thôi nhe.

   Từ đó về sau tôi còn thấy nhiều người thản nhiên xé tiền để mua hay thối tiền. Tiền mà thối, lúc đâu tôi không hiểu, nhưng sau cũng suy ra thối có nghĩa là giả lại. Đồng tiền xé hai, khi thì ngay ngắn, khi thì nửa to nửa nhỏ, nhưng không sao, họ nhận tất cả.

   Khoảng tuần sau thì chị họ của mẹ tôi đưa gia đình tôi đến trú tại nhà hát lớn. Nhà hát lớn sau này là trụ sở quốc hội được trưng dụng cho người di cư tạm trú. Gia đình tôi được khoảng nhỏ, từ một gia đình khác mới dọn đi. Đây là  một trong những balcon của nhà hát, nhìn xuống đường Catinat, rộng đủ để trải một chiếc chiếu và để vài dụng cụ lặt vặt một ấm, một nồi vừa nấu canh vừa xào rau, vài cái chén đũa và một lu nhỏ chứa nước nấu ăn. 

Nước là vấn để nghiêm trọng cho toàn thể vì chỉ có mỗi một cái vòi nước, nằm bên hông nhà hát lớn cho toàn bộ cư dân của nhà hát và vài nhà lân cận. Thông thường thì mọi người nhường nhịn nhau, xếp hàng chờ đến phiên mình, nhưng mọi người đều phải nhường cho một bà chằng lửa, bà này dân Nam kỳ quốc chính hiệu nên không được vào ở trong nhà hát. Bà dựng một tấm bạt làm nhà dựa vào tường nhà hát. Bà ta giành giật và ong óng chửi rủa người di cư hết lời.

   - Tại sao nước nhà hoà bình độc lập rồi, tụi bay không ở ngoải, chung dô đây làm rầy tụi tao, tranh việc làm của tụi tao.

   Chửi rủa chưa đủ, bà ta gầy đen như con mắm, còn xô, còn đá thùng hứng nước của người ta ra, rồi thoải mái hứng hết thùng nọ đến thùng kia cho mình hay đem bán. Người đâu mà dữ dằn quá đỗi. Mẹ tôi giao tôi coi em và xách nước.Tôi thường thức khuya, chờ mọi nguời đi ngủ mới mang chiếc sô nhôm ra hứng, khi đó nước rỉ rả nhỉ giọt. Tôi ôm gối ngủ gục chờ cho sô nước đầy thì khệ nệ lê lên lầu. Bố tôi thì thỉnh thỏang mới xẹt qua mà mẹ tôi sau khi nấu cơm xong thì cũng đi ra ngoài để tìm việc hay chạy giấy tờ lãnh trợ cấp,  khoảng 700 đồng mỗi đầu người.

   Trước cửa nhà hát lớn là hồ  nước có vòi nước phun rất mát, may mà cảnh sát cấm múc nước hay tắm  rửa. Tối đến Saigon lên đèn, đẹp ơi là đẹp. Đúng là hòn ngọc Viễn Đông. Tôi thường theo mấy chị lớn đi dọc theo con đường Catinat, dán mũi vào những cửa hàng sáng choang lộng lẫy nhìn cho đã con mắt  những hàng hóa lấp lánh đẹp vô cùng nhưng quả thật tôi không chút thèm thuồng vì chúng thuộc về thế giới khác, về người khác... nhưng cái con búp bê nằm trong tủ kia, trông như em bé thật ấy, chao ôi sao nó lại có thể đẹp đến thế.

   Bác tôi tìm được một căn nhà trên đường Công Lý, không xa nhà cô Tư là bao. Nhà gần đầu con hẻm chằng chịt gọi là xóm Lách. Chúng tôi giã từ nhà hát lớn, ít ngày trước khi nhà hát giải tán dân di cư, dọn về ở chung với bác Cả.

   Gia đình tôi năm người ở ngoài hiên, kê đủ cái giường, hàng đêm tôi nằm dưới chân giường, co ro cúm rúm, ráng thu nhỏ để khỏi đụng vào bố mẹ hay hai em. Phòng khách kê được cái phản gỗ và cái giường. Giường là chỗ ngủ của ông bà, phản giành cho hai bác và

cũng là phản ăn cơm của cả nhà bác tôi. Tất cả các anh chị ngủ trên gác xép. Tổng cộng 17 người sống trong căn nhà bằng một phần nhỏ căn bếp của ông bà nội ở quê, nhưng tôi rất vui vì được sống chung trong đại gia đình. Tắm là vấn đề lớn được giải quyết dễ dàng. Cả lũ kéo nhau sang cư xá bên kia đường, trong này có hẳn một dẫy nhà tắm hàng chục căn, nước máy trong, mát, có hoa sen chảy rất mạnh, tắm và dỡn đã đời luôn. Nhà có nhà vệ sinh, giành cho ông bà và tiểu tiện. Lũ chúng tôi thì đi nuôi cá ở cầu cá cũng nằm dọc theo đường Công Lý bên kia cầu Bạc Má Hồng  (Mac Mahon), sau này gọi là cầu Công Lý. 

   Cầu cá được  làm  bằng những tấm gỗ có mái tôn che mưa nắng. Đi qua khúc cầu ngắn, rẽ hai bên là hai dẫy nam riêng nữ riêng, mỗi dẫy chừng chục ngăn. Tan học về chúng tôi rủ nhau:

         Rủ nhau đi cầu

        Tay cầm mảnh báo thật to

       Bâng khuâng không biết bước vô cầu nào...

 Chúng tôi mang theo mảnh báo,  vo tròn cho mềm, ngồi gần nhau vừa làm công việc vệ sinh vừa nói chuyện. Hai tấm gỗ dầy đủ để ngồi mà không lọt xuống sông, chúng tôi góp phần nuôi cá. Tõm tõm là cá đã nhẩy lên đớp mồi nên sông nước vẫn sạch trong.

 


Chúng tôi xin được vào học ở trường tiểu học trên đường Võ di Nguy , Phú Nhuận. Từ xóm Lách theo đường Công Lý, qua cầu, rẽ phải vào phía sau chợ Phú Nhuận, đi hết con đường băng qua chợ là ra đường Võ di Nguy, quẹo  trái một khúc là đến trường. Trường nằm trong hẻm. Đầu hẻm là lò heo. Nơi đây người ta giết heo, bò. Heo được trói bốn vó chổng lên trời: một người đè  một người dùng giao nhọn chọc vào cổ, huyết heo chảy vào cái chậu phía dưới nên suốt ngày chúng tôi nghe heo kêu oang oác vì bị giết. Giết bò dã man hơn. Con bò bị đập bể đầu bằng cái vồ bự trước khi thọc huyết.  Bò khôn hơn heo, chúng biết sắp bị giết nên khi đưa vào lò sát sinh, chúng chảy nước mắt rất đáng thương. Tội nghiệp cho loài vật biết bao.

  Đường Công Lý là con đường chính từ phi trường về thành phố nên chúng tôi thường phải dừng bước, quay mặt vào lề để đón tổng thống Ngô Đình Diệm đi kinh lý.  Công Lý cũng là con đường đến nghĩa trang Bắc Việt nên khi có đám ma chúng tôi bảo nhau dừng bước, bỏ nón chào người qua cố. Gặp khi cảnh sát lập biên bản một vụ gì đó, chúng tôi xin phép xem, nói dối là để tả lại trong bài luận văn!

  Sau đó mẹ tôi thuê được một phòng trong  con hẻm số 230 đường Ngô tùng Châu thuộc Gia Định mà mọi người gọi là ngã tư Cây Quéo.

 

Tôi thắc mắc mãi về cái tên kỳ cục này. Này nhé, từ đường Võ Di Nguy đi xuống là ngã tư Phú Nhuận, tiếp tục đi thẳng là đi Gò Vấp, quẹp phải là đường Chi Lăng. Dọc theo đường Chi Lăng, qua ngã ba Chu Mạnh Trinh, ngã ba Tô hiến Thành, ngã ba Cầu Cống là đến ngã ba Đốc Công. Đó, đường Ngô tùng Châu đó, có thấy ngã tư nào đâu. À không, đi tiếp đường Ngô tùng Châu, qua khỏi dẫy nhà mười căn mà tôi ở sẽ tới ngã tư cắt với đường Hoàng Hoa Thám, đường này lại  nối ra đường Chi Lăng để đến chợ Bà Chiểu. Ngay ngã tư bên trái là chợ Cây Quéo, mới đầu là những gian sạp có mái lá, nằm gọn trong một góc, sau dân di cư vào, bày bán, cất sạp, xây đại cả ngay trên đường đi, nối dài thêm ra mãi. Tận cùng là nhà thờ. Nhưng đi mãi, nhìn mãi cũng chẳng thấy cây nào quéo hết trơn cũng như tôi không nhìn thấy cây thị ở ngã ba Cây Thị, hoặc giả những cây này đã bị đốn cả rồi.

 


  Dần dần, bố mẹ tôi mua lại căn nhà này. Khởi đâu là nhà vách ván có dán dấy, có hàng hiên chạy dài rồi hàng hiên được ngăn lại, làm rào, sau đó nhà được  xây gạch, làm gác xép cho đủ chỗ ngủ cho hai chị em tôi.

Chúng tôi ngụ tại đây 10 năm mới dọn đi chỗ khác.

   Thuở  thanh bình không phải ba trăm năm cũ mà là đây, là lúc đó. Sau khi dẹp xong Bình Xuyên, Hoà Hảo, miền Nam thực hiện tổng tuyển cử. Hoàng đế Bảo Đại không có mặt bên dân lúc dầu sôi lửa bỏng nên dân bầu thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống, khai sinh nền đệ nhất cộng hoà, quốc hiệu Việt Nam Cộng Hoà, khác với miền Bắc là Việt Nam dân chủ cộng hòa với chủ tịch là Hồ Chí Minh. Miền Nam vẫn dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ và miền Bắc là cờ đỏ sao vàng. Miền Nam theo chế độ dân chủ còn miền Bắc theo chế độ cộng sản, ngăn cách nhau bằng vĩ tuyến 17 tức con sông Bến Hải.

Kìa dòng Bến Hải đâu xa, mà nay cách trở sơn hà nước Nam…

Những ngày đó chiếc ra dô (radio) suốt ngày ca hát khúc ca ngày mùa, từ tân nhạc đến cải lương, vọng cổ đến nỗi tôi thuộc lòng vài khúc ca:

  Em ơi vào ngủ với anh, sáng mai thức dậy nấu cơm đi cày

  Em còn bận dziệc dzá may, hừng đông có áo đi cài (y) với anh...

 Hay khi...   Tôi đây tên Tôn Các... tìm đường đi thi đành cam lạc lối giữa trời là trời sương rơi. Ôi rừng đau đớn chua xót dùm tôi... (vở Bạch Viên Tôn Các)

 Ôi! Ngày xưa thân ái...

 Sao Khuê


    Phụ đề tài liệu trên mạng

**Điều 14 phần (d) của Hiệp định cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến (Điều 2), tức chấm dứt vào ngày 19 tháng 5, 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày.
   **Vì không có đủ phương tiện cho những người di cư vào Nam nên chính quyền Pháp và Bảo Đại phải kêu gọi các nước khác giúp chuyên chở và định cư. Các chính phủ Anh, Ba Lan, Tây Đức, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Nhật, Philippines, New Zealand, Trung Hoa Dân quốc, Úc và Ý hưởng ứng cùng các tổ chức UNICEF, Hồng Thập Tự, Catholic Relief Services (CRS), Church World Services (CWS), Mennonite Central Committee (MCC), International Rescue Committee (IRC), CARE và Thanh thương Hội Quốc tế.

   **Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng ủy Di cư Tỵ nạn..

** Ngày 4 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhứt, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.
Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" (tiếng Anh: landing ship, tank viết tắt là LST) đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... giúp được 555.037 người "vô Nam". "Nam" được hiểu là cả dải duyên hải miền Nam Việt Nam, từ Đà Nẵng tới Vũng Tàu. Vì số người di cư quá đông Cao ủy Pháp đã xin gia hạn thêm ba tháng và phía Hà Nội đã thoả thuận nên ngày cuối cùng thay vì là ngày 19 tháng 5 được đổi thành ngày 19 tháng 8. Trong thời gian gia hạn thêm 3.945 người đã vượt tuyến vào Nam. Chuyến tàu thuỷ cuối cùng của cuộc di cư cập bến Sài Gòn vào ngày 16 tháng 8.

 

Rối Bời Chữ Nghĩa


Tuần trước tôi vừa “nhập viện”. Nói cho cam, chẳng phải tôi xin vào Viện Mồ Côi làm gì vì đã quá già, cũng không phải vào Viện Hán Học xin thầy mấy chữ thánh hiền, vào Viện Thẩm Mỹ để sửa sang lại dung nhan, cũng chẳng phải vào viện Nghiên Cứu Mác- Lê Nin của ông Hoàng Minh Chính để làm quái gì, vậy mà bạn bè, bà con cứ nói một hai là tôi “nhập viện”.
Ðơn giản là tôi mới vào nhà thương, hay nói chữ nghĩa là tôi vào nằm bệnh viện, cái gì mà cứ nằng nặc một hai gán ép cho tôi là «nhập viện», cho danh chính ngôn thuận, nếu gọi nhà thương là viện thì bệnh nhân nằm nhà thương gọi luôn là « viện sĩ » cho được việc.
Cũng như trước đây mấy chục năm, bọn Cộng Sản cứ một hai đòi «cải tạo» chúng tôi và đặt cho chúng tôi một danh từ kêu là «cải tạo viên».
Từ trước năm 1975, chúng ta chữ nghĩa có lẽ còn ít ỏi, lại không thích dùng quá nhiều chữ Tàu, nên những chữ chúng ta dùng rất đơn giản, thế mà ngày nay… Ngày nay, ngay cả những bạn ngày xưa dạy học cùng trường, sau này trong những cuốn đặc san của các cựu học sinh, cũng uốn viết, uốn lưỡi để nói rằng: «… năm 1972, tôi «nhận công tác giảng dạy» tại trường X» nghe tức anh ách cả bụng.
Ði dạy học thì cứ nói là đi dạy học, cần gì phải gọi là nhận công tác giảng dạy.
Ở Hải Ngoại nhiều bậc thức giả đã lên tiếng về cái điều gọi là loạn chữ nghĩa, mà cách dùng chứng tỏ CSBV lệ thuộc vào văn hoá Tàu Cộng một cách quái đản, khiến người ngoài nước không hiểu nổi khi đọc chữ nghĩa của người trong nước.
Những chữ có «mùi Tàu» quen dùng và đã ảnh hưởng không ít đến truyền thông và người Việt ở Hải Ngoại vẫn thường nhan nhản thấy và nghe hằng trăm, nghìn chữ nghĩa nghe rổn rảng như những miếng sắt va chạm nhau của anh mù đấm bóp của những ngày tháng Sài Gòn năm xưa, như những chữ «chất lượng», «liên hệ», «đăng ký», «xuất khẩu», «tranh thủ», «khẩn trương», «nhất trí”, «hồ hởi – phấn khởi», «bức xúc», «nghiêm túc», «quân hàm», «sự cố», «tham quan», «chuyển ngữ» «quá độ», «cực kỳ»… «thể tạng» con người thì trong nước dùng là «cơ địa», nghe qua bạn có hiểu nổi không? «Triều cường» là gì? «Vĩ mô» là gì? Nào là «chùm», nào là «luồng»! Phải chăng phải tra cứu loại «tự điển Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam» mới hiểu nổi.
Các bạn nghĩ thế nào với những danh từ: kỹ thuật số (digital), máy quét (scanner), phần mềm (software) …
Trong địa hạt giao thông, vận tải không biết sao những người chuyên về các vấn đề này lại là những người thích dùng chữ mới, nghe rất kêu, cứng ngắc như «bê tông cốt sắt» nhưng rất vô nghĩa và xốp ruột như loại «bê tông cốt tre», sản phẩm nổi tiếng của XHCN.
Bạn nghĩ thế nào với những «cụm từ» (lại nói theo kiểu mới) như «kéo giảm tai nạn», «ùn tắc giao thông» , «phân luồng xe chạy», «bố trí lệch ca» để nói về giao thông, vận tải.
– «Trong quá trình bê tông quá độ bị lún, sự cố bất ngờ các khuyết tật nên các đơn vị được giao nhiệm vụ quản trắc phải báo cáo diễn biến đột xuất của hầm chui, và tôi đề nghị nâng tĩnh không của cầu lên từ 3 M lên 3.5 M» (nói về cầu Văn Thánh).
– «Chốt lại vấn đề kích cầu sản xuất, tiếp theo mạch phân công nhiệm vụ phải tuỳ vào sự giải trình cũng như thái độ cầu thị của Bộ Trưởng».
– «Phạm trù quản lý đô thị hiện nay có rất nhiều bất cập, mảng đô thị của chúng ta nói rất mờ nhạt».
– “Phạm trù chuyên chở đại chúng chưa được phủ kín đến vùng dân cư đông đúc mà còn tồn tại nhiều lỗ hổng» (phát biểu của Bộ Trưởng Giao Thông).
– «PMU 18 là sai phạm nghiêm trọng, bộc lộ yếu kém ở cấp vĩ mô, xin ông cho phóng viên nắm bắt giải trình cụ thể» (câu hỏi của phóng viên nhà báo).

– «Vốn kiên cố hoá trường học giải ngân quá chậm» (Ông Bộ Trưởng Giáo Dục nói về ngân sách giáo dục).
Những chữ nghĩa loại này nhan nhản trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình trong nước (Việt Nam Cộng Sản).
Chưa gặp được ông Thủ Tướng để phỏng vấn vì ông quá bận, thì ký giả báo đảng viết rằng: «Thủ Tướng có nhiều cuộc họp bất thường, chưa tìm được thời gian thích hợp để phỏng vấn, nên đành tranh thủ những khe hẹp trong lịch trình đông đặc của Thủ Tướng để xen vào».
Không biết đối với một vị Nữ Thủ Tướng thì nhà báo có dùng nguyên văn như vậy không?
Nói chung đây là những danh từ rất lạ mà nhà báo trong nước hay các viên chức viết, báo cáo diễn văn, không viết nổi một câu văn bình thường dễ nghe, mà vì mặc cảm đã cố tạo ra những danh từ rất kêu, nhưng xem chừng vô nghĩa và rất dung tục.
Hồi chúng ta còn ngồi ở ghế nhà trường mà viết những loại chữ nghĩa như thế trong bài luận văn thì chắc chắn bị thầy, cô «sổ toẹt».
Trong ngôn ngữ, có một số tiếng do nhân gian dùng lâu thành quen, nên cũng có một số không đúng với nguyên nghĩa của nó, tuy nhiên xã hội chủ nghĩa hiện nay đang có khuynh hướng cố tạo ra những danh từ kêu to, lạ lùng và không kém kỳ quái và thô lậu. Vì sao phải dùng «tình trạng của tôi rất căng, nếu nói ra không biết cô có nắm bắt được không?» hay «tranh thủ những khe hẹp trong chương trình dày đặc… của Thủ Tướng!».
Nhà văn Ðặng Trần Huân lúc sinh thời đã có viết một bài báo nhan đề là «Nghĩ thương cho chữ nghĩa» cũng trong tấm lòng xót xa của những người trí thức nghĩ về tình trạng bất hạnh của ngôn ngữ đang bị biến dạng, giày vò một cách thô bạo trong bàn tay của những kẻ thiếu văn hoá.
Ba mươi ba năm nay, do tình thế của đất nước, ba triệu người Việt phải sống cuộc đời tỵ nạn ngoài quê hương của mình, sự khác biệt trong và ngoài nước càng ngày càng thấy rõ, từ văn hoá, phong tục, cho đến ngôn ngữ, khiến chúng ta không chỉ cảm thấy xa cách về địa lý mà còn ngay khi ở ngay trên quê hương, vẫn cảm thấy mình lạc lõng, xa lạ.
Chúng ta có thể nhìn cách lối diễn tả, cử chỉ, ngôn từ, để biết người ấy ở đâu, chịu chi phối bởi thứ văn hoá nào.
Chỉ mong sao Hải Ngoại đừng “bê” nguyên con một bản tin của Hà Nội với những chữ nghĩa rối bời để ném vào mặt độc giả, hay viết lách, ăn nói bằng những loại chữ nghĩa mới mẻ, nghe rổn rảng nhưng thực sự kệch cỡm, vô nghĩa.
Nói xa nói gần, để kết thúc sự rối rắm này, tôi cũng xin loan báo với bạn bè, là tôi vừa «xuất viện», vì ở đầu bài tôi bị «nhập viện», may mắn không phải nhập nhà vĩnh biệt hay lò thiêu, thì đến lúc được «xuất viện».
Ðây chắc chắn không phải ám chỉ tôi vừa tốt nghiệp Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, hay tốt nghiệp Viện Mác–Lê mà đơn giản là tôi vừa ra khỏi nhà thương.
Vậy mà đi đâu bạn bè cũng chúc mừng tôi vừa “xuất viện”. Trong muôn nghìn thứ “viện” trên đời này sao chữ nghĩa Cộng Sản cứ bắt “viện” phải là cái “nhà thương”, mà chúng ta lại phải cứ dùng một cách lười biếng vô ý thức, cóp nhặt mà không hề suy nghĩ.
Không lẽ bây giờ lại phải thua thêm một keo vì những thứ văn hoá, chữ nghĩa như thế sao?

Huy Phương

Hồ Trường

 

Hồ Trường

Thơ: Nguyễn Bá Trác

  

Giọng ngâm: Trần Lãng Minh

   

Giọng ngâm: Tôn Nữ Lệ Ba

   

Giọng ngâm: Tống Hữu Hạnh

 

Hành Phương Bắc

 

 Hành Phương Bắc

Thơ: Sao Khuê
Giọng ngâm: Hồng Vân

Khúc Tưởng Niệm Biển Khơi

 


Khúc Tưởng Niệm Biển Khơi

Nhạc: Phan Vũ Kiên Thanh
Tiếng hát: Kim Khánh

Biển Của Quê Hương

 


Biển Của Quê Hương

Nhạc: Trần Bảo Như
Tiếng hát: Thu Sương

Ngước Mặt Nhìn Trăng

Người con gái đó ngước mặt ngó lên trời
nếu có giọt mưa rơi thì sẽ thế nào nhỉ?

Mắt nàng sẽ đầy lệ? Mắt nàng sẽ đầy trăng?
Nếu giọt mưa bay ngang, trăng vẫn soi chiều dọc?

Và… người con gái đó khóc? Tại sao và tại sao?
Trăng mà cũng biết trào những giọt buồn thương cảm?

Tại sao tôi lảm nhảm sáng nay… mấy câu thơ?
Tôi biết không ai chờ bài thơ buồn buổi sáng!

Tôi biết em ngủ nán chưa ngước mặt lên trời
Tôi thấy giọt sương rơi trước thềm tôi thêm lạnh…

Một sáng tôi hiu quạnh, trăng vừa lặn đầu non
Hoa chiều qua héo hon, sáng nay nở hoa khác…

Ước chi nghe ai hát bài ca ngợi bình minh
Lâu rồi tôi buồn tênh, Quê Hương mình chưa sáng…

Trời vẫn còn chạng vạng, em cúi mặt xuống đi
Đừng đợi nữa anh về bởi thời gian lầm lũi…

Người lính chưa kịp nói đã chết trên chiến trường
Người lính còn sống, buồn, nói gì cũng vô nghĩa…

Trần Vấn Lệ

Chuyện Bà T, Vợ Tù Cải Tạo

  Ái Hoa


Cuối tháng 3 năm 1975, những người từ bờ Nam sông Bến Hải như Đồng Hà, Quảng Trị đã tất tả chạy vào Huế, rồi giống như giòng nước lũ cuốn theo người dân Huế tuôn vào Đà Nẵng trong hoảng loạn và lo âu, mong tránh được làn sóng đỏ, bom đạn và những cuộc tàn sát của những Tết Mậu Thân và Mậu Tí, mà nỗi kinh hoàng vẫn còn ám ảnh trong tâm trí mỗi người. Họ đã bỏ lại tất cả chỉ mong giữ được mạng sống. Thật là:

Mùa xuân năm ấy tưởng yên vui
Bỗng đâu giông tố thổi vào đời
Dân Nam điêu tàn theo vận nước
Chạy làn sóng đỏ, kiếp nổi trôi…

Baø T, vôï cuûa trung ta ùNVT, đmột tiểu đoàn trưởng bộ binh, vì ra thăm chồng bị thương trong một chuyến đụng trận mới ít ngày trước ở miền Trung đang được điều trị ở Bệnh Viện Giải Phẩu Đà Nẵng, nên bị kẹt lại ở đó. Bà vốn là một người đàn bà ngây thơ trẻ trung xinh đẹp nhưng gặp cảnh ngộ này bỗng trở thành khôn ngoan tháo vát, đã dàn xếp để tải người chồng đang bị thương cùng bầy con bà, mẹ bà, mẹ chồng bà theo laøn soùng ngöôøi di tn ñeán beán Tieân Sa, nơi đang có nhiều tàu Mỹ đậu sẵn ñeå tải người di tản đi. Từ đây gia đình bà đã bắt đầu một chuyến đi gian nan tưởng là vĩnh biệt luôn quê nhà và một cuộc đổi đời đầy bi thương cả đời bà và con cháu bà khó mà quên!

Ngay khi ñeán beán Tieân Sa, töø treân boä nhìn ra, baø T. ñaõ nhìn thaáy mấy chiếc tàu của Mỹ đang đậu xa xa ở ngoài khơi. Tàu nào cũng đầy cả người mà xa gần bao nhiêu người trên những thuyền nhỏ quá nặng muốn đắm vẫn đang tranh nhau leo lên rồi rớt xuống, nhiều người không biết bơi biến mất luôn dưới mặt biển.. Chừng như trong cảnh tranh sống không ai còn nhớ đến chuyện nguy hiểm hay nguyên tắc căn bản về dung lượng của những chiếc ghe, chiếc tàu. Tiếng la hét, khóc than làm toàn cảnh hỗn loạn càng kinh khiếp hơn. Người ta chen lấn, xô đẩy nhau, đè lên nhau, và kết quả là nhiều người bị rớt, chìm dưới biển rất oan ức. Tiếng thân nhân của nạn nhân kêu khóc vang trời, nạn nhân hết hơi cầu cứu trong tuyệt vọng, con nít khóc la vì đói khát và vì hoảng hốt khi thất lạc mẹ cha v.v. làm náo động cả một góc trời Đà Nẵng.

Nhìn thấy một chiếc xà lan cũng đầy người đậu gần đó, bà T. nhào ngay đến năn nỉ, thương lượng với chủ xà lan xin nhét thêm gia đình bà lên. Nhìn thấy bộ mặt của người thiếu phụ trẻ trung đẫm đầy nước mắt giữa một bầy con nít lau chau khóc la quanh một người cha thương tật đang nằm trên băng ca, hai cụ bà già yếu đang run run, chủ tàu động lòng thương tâm nên dẹp lối cho họ lên tàu.  Ngay sau ñoù, chiếc xà lan vội vả ì ạch ra khơi cho kịp buộc dây vào đuôi một chiếc tàu hải quân của Mỹ. Khi chiếc tàu hải quân Mỹ nổ máy chạy thì xà lan cũng được kéo theo.


 
Yên chỗ rồi thì bọn con nít khóc la kêu đói khát. Vì phải chạy thục mạng nên cả gia đình chẳng mang theo được gì trừ một ít bánh mì và ít tiền bạc thủ thân trong cái xách tay của bà T. Tiền giấy không ăn được, người lớn phải nhịn cho lũ trẻ con, mười hai đứa con của bà T sinh năm một, hai đứa lớn nhất mới 14 và 13 tuổi theo lệnh mẹ đem vài ba ổ bánh mì chia đều cho các em.

Qua ba ngày phơi mình dưới nắng rát và bốn đêm sương gió đầm đìa thiếu ăn uống, nhiều người trên xà lan đã lần lượt ngã bệnh, có kẻ bệnh sẵn không thuốc men bị chết và bị quăng xuống biển. Ba trong mười hai đứa con tiên thiên yếu nhược của bà T không chịu nổi khổ sở cũng cùng chung số phận. Nếu không vì phải lo cho cả gia đình đông người còn lại thì bà T cũng đã nhào mình xuống biển cùng với ba đứa bé không may, khỏi đau lòng tự thống trách chính vì mình không lo cho các con chu đáo nên mới ra nông nỗi, mới gây ra cái chết thương tâm cho chúng nó như thế. Đứa con trai út vừa mới tập nói của bà bỗng phát chưởi thề “Đ. M., khát nước quá!” làm bà sững sốt. Tiếng đứa con gái 5 tuổi làm bà càng ngạc nhiên hơn: “Lạy Đức Mẹ Maria, xin Mẹ cho mưa xuống cứu con, Mẹ ơi!” Không chỉ người trong gia đình mà bao nhiêu người đang chen chúc nhau gần đó cũng cất tiếng cầu Trời khấn Phật theo bé gái. 

Lời cầu thế mà rất linh nghiệm. Trời đã thương tình cho mưa xuống, cứu giúp bao nhiêu người đang đói khát, đang ngắc ngoải chờ chết trên xà lan. Sau đó, hình như Trời cũng động lòng thương xót cho người mẹ trẻ vừa mới mất 3 đứa con thơ và vai còn nặng gánh gia đình nên cho bà T. như một phép lạ vấp phải một ba lô vô chủ trên sàn tàu ngay ở dưới chân đựng khá nhiều sữa bột. Nhờ đó mà gia đình bà đỡ đói khát, và ông T, người thương binh vừa trải qua nhiều ngày không thuốc men, không thực phẩm, đang gần như hôn mê, đã có đôi chút bồi bổ cho lại sức, khỏi chết.

Tưởng đâu những người trên tàu Mỹ đi trước là an toàn hơn, nào dè cũng không khác chi, mà có lẽ còn tệ hơn! Từ bên này nhìn sang, bà T đã chứng kiến cảnh hai mẹ con chị Văn, chị dâu họ của bà bị người cùng tàu đánh cướp và xô xuống biến giữa tiếng kêu thét như điên cuồng của anh Văn và một gái một trai còn sống sót. (Cả hai cháu này đã bị điên kể từ ngày đó.)

Khi vừa đến Quy Nhơn thì không may gặp phải tàu Hải quân của Phía Bên Kia. Bọn họ đã đành tâm tháo dây nối của xà lan khỏi tầu Mỹ, để cho chiếc xà lan đầy người dở sống dở chết một mình lềnh bềnh trên sóng nước đại dương. Trong lúc tưởng chỉ còn chờ chết thì may sao người trên tàu đã gặp cứu tinh. Một chiếc tàu Phi Luật Tân đã xuất hiện, cứu vớt hết người trên xà lan. Tàu này đã chở họ về Cam Ranh, nơi vẫn còn một sư đoàn quân lực VNCH trú đóng. Đoàn người di tản đã được vị đại tá chỉ huy sư đoàn này tiếp dẫn về trung tâm tạm cư của sư đoàn, và mấy ngày sau đó được đưa về Vũng Tàu.

Những hình ảnh đói khát,chết chóc, cướp bóc, hãi hùng ghê rợn, nỗi đau vì cái chết của 3 đứa con thơ cùng một lúc bị quăng xuống biển làm mồi cho cá mập, đã đưa gia đình bà T đi đến quyết định dừng lại ở vùng biền này. Một thời gian sau đó họ tìm về Sài Gòn, xin tá túc ở nhà chị ruột ông T ở trong một xóm nhà ở đường Nguyễn Thông. Họ hy vọng một thời gian ngắn khi tình hình ổn định thì sẽ về lại với nhà cũ quê xưa.

Những ngày cuối tháng Tư năm 1975, Sài Gòn bất ổn hổn loạn! Tin tức cho biết các tướng Lê Văn Hưng và Nguyễn Khoa Nam tử tiết. Những vụ bắn phá pháo kích Dinh Độc Lập không mấy xa từ nơi gia đình bà trú ngụ nghe đùng đùng. Tổng Thống mấy ngày Trần Văn Hương bàn giao chức vị cho Tướng Dương Văn Minh và vị tổng thống cuối cùng của nước Việt Nam, chính thể Cộng Hòa Đệ Nhị đã tuyên bố rằng Miền Nam từ đây giải giáp ngưng chiến để “hòa giải hòa hợp” với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Cũng như bao nhiêu người bình dân khác khi hết đường chạy trốn, gia đình bà T (trừ ông T) không khóc thương cho một nước VN Cộng Hòa đã mất mà chỉ núp trong nhà để cầu nguyện cho gia đình được bình an cũng như thương tiếc cho những đứa con thơ vì những kẻ hiếu chiến đem chiến tranh vào đây mà bị chết tức tưởi thương tâm.

Đến ngày 30 tháng Tư, Sài Gòn đã hoàn toàn bị chiếm. Rải rác đó đây là những quần áo quân nhân, giày saut, vũ khí và cả xác chết, những hoang tàn đổ nát. Thành phố tràn ngập những bộ đội nón cối dép râu. Các máy phóng thanh vang vang những lời tuyên truyền giọng Bắc lơ lớ khó nghe. Những lời ca ngợi Bác và Đãng cùng chiến thắng của Mặt Trận Giải Phóng. Từ đây gia đình bà T cũng như toàn dân miền Trung và Nam Việt Nam phải rơi vào cơn sóng dữ thay đổi cả một cuộc đời còn lại từ tự do hạnh phúc đến tang thương bể dâu bi thảm.

Đầu tháng năm, 1975, Đài Phát Thanh Sài Gòn (lúc này đã đổi tên là Hồ Chí Minh), thông cáo rằng các sĩ quan “ngụy” phải đi trình diện, tùy theo cấp bực, tại những địa điểm đã được chỉ định sẵn. Ông B, láng giềng mới của gia đình cho ông T xem một tờ cáo thị do Ủy Ban Nhân Dân địa phương phát, theo đó tất cả sĩ quan “ngụy quân” phải đăng ký để được đi học tập về chính sách mới. Ông B hỏi ông T:
-Anh nghĩ thế nào về thông cáo này? Mình có thể không trình diện không?
Ông T:
-Không trình diện thì họ chắc chắn sẽ lùng bắt mình như đã bắt bao nhiêu người khác thôi, lại càng nặng tội thêm. Họ bảo đem tiền đủ dùng cho một tháng, hy vọng mình sẽ chỉ bị nhốt một tháng. Điều không biết là họ sẽ đưa mình đi đâu và sẽ làm gì mình.

Bà T không khỏi lo âu khi nhìn thấy vẻ mặt lo lắng khẩn trương của hai ông. Từ khi lấy ông T, dù mang tiếng là chồng đâu vợ đó, bà luôn xin được ở Cư Xá Sĩ Quan gần đơn vị nơi ông tác chiến, nhưng bà đâu có được bao ngày vợ chồng sum họp vì ông phải ra trận liên miên. Cả những lúc sinh đẻ bà cũng vượt cạn một mình. Những ngày qua, nhờ ông bị thương, mới được cùng ông bên nhau từ Miền Trung vào Quy Nhơn đến Vũng Tàu và Saigon, lòng chưa kịp vui vì được ở bên chồng thì nay đã thành buồn thảm vì sự mất mát nát lòng của 3 đứa con thơ, bị đả kích thêm vì giờ ông bị buộc phải ra đi khi thương tích vẫn chưa lành, lành dữ không hay. Câu nói của ông “Họ sẽ làm gì mình” càng làm bà rối ruột. Nhớ đến vụ chôn người tập thể ở Nam Hòa, những cuộc đấu tố dã man trong thời Cải Cách Ruộng Đất cha bà kể lại, ông đã từng lên lon rất nhanh nhờ thành tích chiến thắng kẻ địch, đã trở thành kẻ thù kẻ ngụy đối với họ v.v.bây giờ ông đi tự thú thì có khác gì đem thân đút vào miệng cọp? Nhưng khi nghe nói “Đem tiền theo đủ dùng một tháng” thì bà lại hy vọng, dù mong manh, là có lẽ ông chỉ đi một tháng rồi về.

Đài vô tuyến, các loa phóng thanh hàng ngày vẫn sang sảng thúc hối, khuyến cáo ngụy quân ngụy quyền các bộ, cả các văn nghê sĩ Miền Nam, không chừa một ai phải tự giác ra trình diện, nếu không sẽ bị nặng tội thêm với “nhân dân”. Đồng thời, bộ đội và công an đã thay phiên nhau vào nhà dân để kiểm kê, lục soát, tịch thu rất tự nhiên, tự do.
Tiếng nhạc, câu ca, những bài hát tình tứ lãng mạn, những bài dân ca mộc mạc đầy tình yêu quê hương từ các quán ăn trong thành phố đã bị thay thế bằng những tiếng nhạc Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây đầy âm hưởng nhạc Hoa âm thanh the thé, hay những bài ca đầy hơi hướm búa liềm sắt máu xen kẻ những tuyên truyền cho chế độ mới. Những buổi họp được tổ chức liên tiếp, cho các “Mẹ, Chị”, “Nhân Dân Phường, Xã, Quận”, cho đủ thứ thành phần. Có rất nhiều điều bất ngờ đã xảy ra, chẳng hạn tên những nghị sĩ này hay những giáo sư nọ rất có tiếng tăm ở Miền Nam nay mới biết là đã nằm vùng cho ngoài ấy. Vào một buổi họp nào đó, khi nhìn thấy chủ tịch của một ủy ban lên dạy sức khỏe cho mẹ chị trong phường là một chị bán cá ngoài chợ mình đã gặp hàng ngày, rồi một kẻ chuyên gánh nước thuê đã biến thành một ủy viên chính trị lên bục giảng huấn cho dân trong thành phố gồm những ông nọ bà kia rất trí thức. Dân trong phường cũng học được những bài học độc đáo chẳng nơi nào có như về bảo vệ Chuồng Chò (lỗ chứa phân và nước tiểu) để tưới rau quả và về việc uống nước tiểu để chữa bệnh.

Ngày 15 tháng Sáu, với cõi lòng như đêm 30 Tết, bà T đã tom góp trao cho ông chồng 20,000 đồng gồm 13,000 tiền đi đường và 7,000 tiền tiêu, để ông lên đường đi học tập.
Từ trường Tabert là địa điểm tập trung, ông bị đưa lên Long giao. Ở Long Giao 4 tháng, ông bị chuyển lên Suối Máu, sau một năm thì ông bị chuyển ra Nam Hà ngoài Bắc. Tưởng là đi một tháng mà hóa ra 156 lần hơn! Thân kẻ bị lưu đày đã oằn người vì gian khổ, mà kẻ ở nhà cũng ngóng trông dài cổ, khổ sở đọa mạng để kiếm ăn sinh tồn.

Một tháng, một năm, hai, ba năm sau vẫn không thấy chồng được thả về, bà T đã tự nhủ thôi đừng mong nữa. Tiền bạc mang theo chẳng còn, nghề ngỗng không có, làm sao để lo cho cả bầy con thơ dại, thêm hai mẹ già cùng đàn em còn nhỏ ở ngoài Huế kia! Biết là chồng đang bị tù đày rất khốn khổ, mà biết làm sao để đi thăm nuôi chồng đây! Trăm ngàn nỗi lo làm mặt hoa ủ rủ. Phường, Khóm đang làm khó dễ bà đủ điều, muốn bắt bà đi kinh tế mới vì bà không có hộ khẩu và lại thuộc thành phần đại ngụy. Phải có hộ khẩu mới được ở lại, và mới có quyền đi thăm nuôi. (Trong thời gian này, nhân dân dù theo đạo nào, phải dẹp hết bàn thờ Chúa, Phật, Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ để thờ Cờ Đỏ Sao Vàng và hình, tượng Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Hồi đó ca dao truyền khẩu có câu “Chỉ tiêu 3 mét vải thô, áo không đủ mặc lấy đâu che hồ”) Cán bộ giảng huấn đã nhiều lần cho biết rằng vợ các sĩ quan ngụy như bà T phải đi học tập thường xuyên và phải đi kinh tế mới, mới mong có ngày chồng được tha về. Bà T đã bị mời lên Phường nhiều lần. Những lần sau bà dẫn cả bầy con và hai mẹ già đến. Bọn trẻ nheo nhóc mà chẳng biết sợ ai, chọc ghẹo nhau, khóc nhè kiện cáo nhau làm loạn cả văn phòng. Hai bà cụ thì lụm khụm gầy gò ho hen làm họ ngán. Chẳng biết có phải vì thương cho cảnh ngộ đáng thương của gia đình hay vì mê vẻ xuân sắc của bà T mà trưởng phòng Công An Phường đã cấp cho gia đình bà hộ khẩu để tạm trú ở phường.
Bà T cố lo cho con cái đi học, nhưng mỗi lần đi học về, nghe mấy đứa nhỏ khi thì ca “Em Yêu Bác Hồ” khi thì thấy chúng khóc lóc kể lại bị chế nhạo là “đồ con ngụy”, “đồ con cháu có Nợ Máu với Nhân Dân” và bị những đứa ngổ ngáo thoi đánh v.v, hơn nữa nhà đang quá túng quẩn nên bà đành để chúng ở nhà cho đỡ rắc rối.

Trong tay không có nghề, lũ con lại đông, lại thuộc thành phần ngụy quân nên bà chẳng kiếm được việc làm. Chẳng ai chịu thuê bà. Đang lo gầy người thì may sao Trời thương cho bà gặp một đồng hương người Huế tốt bụng nhà cùng xóm bày vẽ cho bà cách làm Nón Bài Thơ Huế. Bà còn chỉ cho nơi để mua khuôn, lá, kim, sợi, mẩu thơ v.v. Đói thì đầu gối phải bò. Bà T và lũ con nít học rất nhanh, bà T cũng nghĩ ra cách làm theo kiểu dây chuyền cho mau. Từ đó, có tiểu đội nón Huế (bà T, 9 con của bà, và 2 mệ) ra đời. Hàng ngày già trẻ lớn bé kẻ lên khung, cắt lá, ủi lá, người dán hình, chằm, kết, buộc dây từ sáng sớm đến tối mịt. Trừ thời gian đầu gian khổ vì hư hỏng, thiếu vốn, sau này Nón Bài Thơ Bà T cũng khá uy tín trong giới buôn nón. Tuy vậy, lợi tức vẫn không đủ so với mức tiêu thụ của tiểu đội nên lần lượt giường, tủ, bàn ghế, áo quần, giày dép trong nhà đã đi tìm chủ mới. Hàng ngày thực phẩm của gia đình chỉ còn là gạo hẩm, bo bo, khoai sắn, bắp khô nhiều khi phải nấu thành cháo lỏng mới đủ chia nhau. Bà T lòng đau như dao cứa!
Xưa đã từng có câu: “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.” Trời bắt nước Việt nhỏ bé phải bị nước lớn ăn hiếp chưa đủ, trong nhà gà nhà còn bôi mặt đá nhau, làm con dân trong nước trai thì thí mạng oan ức ngoài chiến trường, đàn bà liễu yếu đào tơ, trẻ nít vô tội thì bị đày đọa, con mất cha vợ mất chồng, trời sầu đất thảm. Bà T rất đẹp, đã biết yêu rất sớm. Bà yêu say đắm ông T trong tướng dáng oai hùng của người sĩ quan, đã trở thành bà Thiếu Úy T khi mới 14 tuổi. Ông đi hành quân ở đâu thì bà xin đi theo đó. Ông T thăng tiến trong đời binh nghiệp thì bà T cũng thăng tiến trong việc sản xuất hậu duệ cho ông. Sau 15 năm ông T vào sinh ra tử trong những trận đánh nẩy lửa với địch, trở thành một tiểu đoàn trưởng bộ binh của QLVNCH thì bà T cũng đã trở thành tiểu đội trưởng của một đội nhóc gồm 12 hậu duệ T con, với 12 lần thập tử nhất sanh vượt cạn một mình. (Không may nay chỉ còn 9 nhóc sống sót). Không vì nỗi đau mất mát cùng lúc 3 đứa con mà bà mất đi ý chí phấn đấu. Bà vẫn tiếp tục chỉ huy tiểu đội của bà để chiến đấu ở hậu phương.
Nhiều lần bà bị nhòm ngó, bị dụ dỗ hủ hóa, nhiều lần bà bấm bụng chịu đựng những câu mắng nhiếc của mấy tên chăn trâu chăn bò chẳng đáng xách dép cho bà, bà đã phải trải qua trăm ngàn vất vả quá sức chịu đựng để lo cho cả một đại gia đình, một bầy con chưa lớn, lúc nào cũng canh cánh bên lòng nỗi thương nhớ, lo âu không biết chồng yêu nay đã ra sao. Có lúc bà làm gan lên phường hỏi khi nào chồng bà được tha, để rồi cay đắng nhận được câu trả lời: “Khi nào trâu đực đẻ con thì chồng chị mới được tha.”

Từ thành phố Sài Gòn (HCM) ra trại Nam Hà ngoài Bắc đường xa diệu vợi. Một người thiếu phụ chưa từng xông pha nắng gió, chưa có kinh nghiệm đường xa như bà quả thật là khó khăn, nhưng vì yêu chồng mà bà T bất chấp. Bà vay mượn tiền của thân nhân đem lên phường để xin giấy phép. Giấy phép thăm nuôi khác với Giấy Phép Đi Lại. Lúc này người ta viện cớ “chưa thống nhất” nên không chịu bán vé chính thức, và hành chánh địa phương chưa quen lệ cấp giấy đi lại cho dân ngụy, chỉ có cán bộ và bộ đội mới được phép đi lại giữa bắc và nam nên chi người dân phải mua vé chợ đen, đắt gấp 4, 5 lần giá chính thức. Bà vẫn cứ đi.
Dọc chuyến đi bà đã phải bao phen trốn lánh nơi rừng rú, bụi bờ, hoặc ẩn núp trong những toa xe chở súc vật để tránh những trạm “kiểm soát đi lại” suốt hành trình của con tàu Thống Nhất. Vì những vất vả dọc đường kể trên mà bà phải thức suốt 3 đêm liền, quá mệt mỏi nên bà đã mê đi. Khi tàu đến gần Nam Định, bà tỉnh lại thì bao nhiêu đồ bới mang theo đã không cánh mà bay mất tiêu. Đành coi như mắm ruốc trà đường này đã góp phần vào việc tiến nhanh tiến mạnh lên Hạnh Phúc của một tên vô sản vô lại nào đó vậy Bà tự nhủ. Đã sẵn túng thiếu, vì sự cố này mà mẹ con bà phải chịu đói rất khốn khổ suốt cả tháng trời sau khi bà trở lại Miền Nam.
 Khi tàu đến Nam Định, bà phải kiếm phòng trọ, chẳng phải để ngủ nghỉ mà là để có phương tiện đi chợ, nấu ăn, làm lại những món đồ bới như xôi, ruốc khô, thịt chấy.v.v. Ngày hôm sau, bà thuê xe kéo chở đồ đó lên Phủ Lý. Từ Phủ Lý, bà phải thuê khi thì xe kéo khác, khi thì xe đạp, hai ba chặng nữa mới tới được Hà Nam Ninh. Đồi cao dốc thấp, ổ gà ổ vịt bà không quản, cứ việc xăn quần vén áo xách guốc tất tả chạy theo kẻo chủ xe cố tình đi lạc thì khổ tàn đời. Khi đến được trại giam thì bà đã tả tơi như cái mền rách! Tuy vậy, bà cũng mừng, rất phấn khởi vì biết rằng mình chỉ còn cách chồng trong gang tấc.

Gần cổng trại giam, cạnh một chòi canh có một anh áo vàng mặt mày hồ hởi phấn khởi ngồi sau một cái bàn gỗ. Bà tiến lại, tay run run đưa ra cái tờ giấy đã xin được ở phường bà ở:
-Thưa anh, thưa đồng chí, xin cho tôi thăm chồng tôi.
Tên công an săm soi tờ giấy, lên tiếng hách dịch:
-Ai đã cho chị giấy này? Phải có giấy đi nại mới được thăm nuôi.
Cố hết sức nhẩn nhục, làm ra vẻ ngây thơ ngu ngơ, bà T năn nỉ:
-Dạ thưa anh, Phường đã cấp giấy này cho tôi, bảo là đi thăm nuôi được. Xin anh cho tôi được thăm nuôi lần này, rồi lần sau tôi sẽ xin Phường cho Giấy Đi Nại như anh bảo ạ!

Tên công an nạt lớn, bắt bà đứng ra một bên để giải quyết cho những người y bảo là “có giấy” trước. Chờ mãi dễ chừng 3 tiếng sau vẫn không nghe gọi, bà T đáng bạo đến gần năn nỉ, kể lể những gian nan cực khổ trong chuyến đi từ Nam ra đây. Nghe cũng xiêu lòng nên y coi lại giấy của bà, hỏi:
-Chị tên gì? Đi thăm ai?
-Dạ thưa anh, tên là Lê Thị Ngọc Lan, đi thăm chồng là NVT.
-Nê thị Nan, chị đứng đó chờ đi! Vừa nói y vừa dùng bút vòng một vòng quanh tên bà.

Dù có bị đổi tên thành xấu hơn nữa thì bà T cũng không ngại, vẫn cứ mừng vì đã được y cho phép đứng vào hàng chờ thăm nuôi. Mãi thật lâu sau bà mới thấy một người mường tượng là ông đang chống nạng khập khểnh bước ra. Trước mắt bà là một người mặt bủng da chì, bụng phình ra, không còn một chút gì phương phi như khi còn ở trong Nam nữa. Tiếng của tên công an “Hai người chỉ có 15 phút thôi đó!” làm bà giựt mình.
Sau bao năm trông đợi, sau chuyến đi dài gian nan, bây giờ hai vợ chồng chỉ có 15 phút gặp nhau thôi sao trời? Hai vợ chồng mừng mà rất tủi, tâm sự chất cao như núi, nghĩa tình sâu tận tâm can, thế mà tên cai tù lại hiện diện một cách vô duyên ác độc không cho phép hai người trao đổi với nhau một lời chân thật, tỏ bày cho nhau những nỗi nhớ nhung. Hai ông bà muốn biết tình trạng của người thân mà không thể hé môi. Nhìn thấy bà gầy mòn héo úa bụi đất đầy người, ông rất đau lòng. Bà nhìn thấy ông trông giống một xác chết trôi chưa chôn, bà thắt ruột. Bà phải nói với ông toàn những tin tốt để ông yên tâm. Ông cám ơn bà đã thay ông nuôi con, lo cho mẹ ông, bảo rằng ông không sao.Vội vàng bà giao hết cho ông những gì đã mang theo, những gì tuy là tâm thường mà chất chứa đầy tình nghĩa lẫn nỗi cảm thương của bà dành cho ông. Dù không biết chồng mình còn được bao nhiêu khi mang đồ tiếp tế vào trại giam, bà vẫn rất mừng thấy ông còn sống và rất an ủi rằng mình đã trao tận tay cho chồng vài ba món bình thường ông vẫn ưa thích.

Sau khi bị đuổi ra ngoài vì hết giờ thăm nuôi, bà đã làm quen với những người vợ tù khác đã từng đi thăm nuôi hơn một lần. Bà đau lòng biết bao khi được biết rằng mỗi người tù ở đây tiêu chuẩn mỗi tháng được phát 13 kí gạo, trong 13 kí này hết ½ là sạn sỏi, 1/7 là lúa, 1/3 là bobo, còn lại là gạo hẩm. Đến bây giờ bà T mới thấy mình đã kiệt sức, không còn đứng vững. Bà ngã lăn ra đất trước trại cải tạo và mê đi, mặc cho muỗi đói từng bầy đến châm chích và sương đêm đẫm ướt cả người. Tinh trạng thê thảm của chồng cùng cảnh tượng khóc than tuyệt vọng của những người vợ tù khác khi đền đây rồi mới biết chồng mình đã chết thảm vì bị đọa đày, đói rét, bệnh tật, bị chôn thân đâu đó trong rừng sâu núi thẳm làm bà giựt mình tỉnh lại trong đêm, để càng khiếp hải thêm khi nghe trong tiếng gió tiếng những oan hồn khóc than và trong bóng đêm như có những bóng ma trơi đang chập chờn trên những cành cây bụi cỏ. Bà sợ muốn đứng tim.

Năm 1988, sau mười ba naêm làm thân tù đày ông T mới được tha về. Con cái ông tưởng suốt đời sẽ mồ côi cha nay đã có cha. Người mẹ già tưởng đã mất con nay đã thấy lại người con. Và người vợ, cứ ngỡ sẽ mất chồng nay đã được đoàn tụ với chồng. Cả gia đình mừng vui hơn khi biết mình sắp được đi đến một nước Mỹ họ từng nghe nói là giàu có và tự do theo diện HO. Chánh phủ Mỹ và VNDCCH đã ký thỏa hiệp cho phép những cựu tù nhân chính trị ở tù cải tạo trên 3 năm được di cư tị nạn ở Mỹ . Bà T lập tức lo đút lót cho hành chánh địa phương nhờ họ dễ dãi trong tiến trình lập hồ sơ xin đi. Bà nhanh chóng đi vay tiền để mua đơn từ và chạy chọt cho thủ tục tị nạn chóng xong. Điều kiện là khi qua đến Mỹ bà sẽ gửi tiền về trả lại vốn lẩn lời. Cũng may là còn có người tử tế sẵn tiền và lòng giúp đỡ nên mọi thủ tục rồi cũng hoàn tất.
   
Đầu năm 1990, sau nhiều hao tốn và nợ nần để qua những thủ tục rắc rối, cuối cùng rồi gia đình gồm hai bà mẹ, hai vợ chồng và bầy con 9 đứa của bà T cũng được phép lên máy bay rời khỏi VN để đến thành phố Seatles của Mỹ. Những người Việt tị nạn đến trước họ, những thành viên trong Hội Ái Hữu Cựu Quân Nhân VNCH thân tình đón tiếp, các cơ quan thiện nguyện giúp đỡ về vật chất, các cơ quan dịch vụ xã hội của quận hạt nơi họ đến lo về phúc lợi tài chánh cũng như y tế cho cả gia đình họ. Cả gia đình cảm thấy sung sướng như thần tiên. Họ không còn phải lăn lóc trên nền đất đến mòn cả đũng quần,vất vả tối tăm mặt mày với những chiếc nón bài thơ mà vẫn không đủ ăn. Họ không còn bị công an phường, khóm, thành lấp ló theo dõi từng bước đi, từng câu nói, chực chờ ập bắt bỏ tù, nhất là khi chủ gia đình vẫn còn mang án tù treo chỉ vì bị cho là “ngụy”.

Những tưởng tương lai tươi sáng đã mở ra trước mắt, qua bên kia nhờ bồi bỗ ông chồng sẽ hết xanh xao võ vàng. Thế nhưng, một ngày kia không lâu sau đó, bà T đã phát hiện ông T đã đi tiêu ra máu, nhìn thấy ông đau đớn quằn quại và bị ngất đi. Khi ông được đưa vào phòng Cấp Cứu, sau khi qua những thủ tục khám nghiệm thì mới biết cái ulcer trong bao tử ông T đã bi lở loét giai đoạn cuối, và bị xuất huyết não cùng lúc. Dù đã tận sức, nhưng các bác sĩ ở bệnh viện đành phải đầu hàng không cứu nổi ông thoát khỏi tử thần.

Ai đâu biết được ông T đã bị đủ thứ bệnh trong người mà chỉ vì ý chí cầu sống để về với vợ con, với mẹ già mà ông đã cố sống trong suốt 13 năm dài đăng đẳng. Hai năm qua ông cố sống, âm thầm rên rỉ với những đau đớn trong người vì mong cho gia đình thoát khỏi chốn trần ai. Tiền bạc không có nên ông nào dám than van rên rỉ. Ông rất đau lòng khi nhìn thấy người vợ kim chi ngọc diệp đã vì ông mà dù tuổi đời mới trên 30 đã phai tàn hương sắc, héo mòn thân xác trông đến tội. Giờ biết chắc vợ con mình đã có chỗ an thân vả lại sức chịu đựng cũng mỏi mòn nên ông muốn dứt bỏ cái xác phàm làm ông quá đau khổ lâu nay. Câu ông nói sau cùng dù thì thào đứt quảng nhưng bà nghe vẫn rõ: “Xin em tha lỗi cho anh! Cũng vì anh ích kỷ mà em đã phải gánh vác một bầy con thơ, một người mẹ già, cuộc đời son trẻ đầy âm u tăm tối. Tình anh đối với em ngàn đời không thay đổi.  Anh yêu em và kính trọng em lắm em ơi!”

 Bà T ngã xuống nền nhà bất tỉnh! Cả phòng cấp cứu ai cũng hoảng hốt tưởng rằng bà muốn đi theo ông. Nhưng sau khi được bác sĩ chích cho một mủi thuốc thì bà tỉnh lại. Nhìn ông chồng đang nằm mê man, bà khóc kể thảm thiết.
Vì ai mà gia đình bà phải chịu cảnh thương tâm như thế này? Đau khổ tưởng đã qua khi đến vùng đất mới, nào ngờ hậu quả của ác mộng vẫn còn theo như những cơn địa chấn để lại những sóng ngầm. Đời ông sao mà tội quá! Hết vào sinh ra tử trong mười mấy năm đời binh nghiệp rồi bị đày đọa thêm mười mấy năm trong cảnh lao tù khổ sai. Bệnh mà phải cắn răng chịu đựng không dám than! Tưởng rằng niềm vui hạnh ngộ sẽ bù đắp lại những nỗi khổ vì xa cách, ngờ đâu hết cảnh sinh ly lại đến tử biệt! Từ nay một thân nơi xứ lạ quê người đêm đêm bà sẽ làm người góa phụ khóc chồng nhớ con, làm con chim Đỗ Quyên lẻ bạn cất tiếng hót đứt ruột gửi về quê hương và ngày ngày sẽ phải đảm đang lo cho bầy con 9 đứa cùng hai bà mẹ già của hai người.

Lời Người Viết:
Thiết nghĩ bà T cũng như vợ của các người tù cải tạo thật đáng phục! Khi chồng họ bị lao tù khổ sai, ngoài việc vất vả mưu sinh giữa những đe dọa bất an, họ còn phải một mình vượt núi băng rừng từ Nam ra Bắc và đến các trại tù, chạy theo tàu hỏa, tàu bò, xe kéo, xe đạp để bới xách bồi bỗ cho chồng. Họ nào khác chi những nữ lực sĩ trong các thế vận hội Olympic, cũng không khác gì những vị trong Liệt Nữ Truyện, một dạ trung trinh thờ phụng mẹ chồng và nuôi dạy con cái khi chồng phải ra chiến trường. Nỗi chờ đợi thương nhớ ngày đêm càng thêm khó tả khi chồng họ bị bắt đi cải tạo nhiều năm không án và không hẹn ngày về.

Ái Hoa 
(revised 28 tháng Tư, 2015)